Thứ Sáu, 5 tháng 8, 2016

Vipassana và sự chuyển đổi xã hội

          Phương pháp tu thiền Vipassana là con đường dẫn đến giải thoát mọi ràng buộc khổ đau; nó đoạn trừ tham, sân, si là nguyên nhân của mọi khổ đau. Hành giả Vipassana tu tập để dời đi, một cách tuần tự, căn nguyên của khổ và thoát ly sự đen tối của những căng thẳng từ trước, dẫn đến cuộc sống sung túc, lành mạnh và hạnh phúc. Có nhiều thí dụ điển hình liên quan đến việc kiểm tra vấn đề này. 
          Một số các cuộc thí nghiệm được tiến hành ở các nhà tù ở Ấn Độ. Vào năm 1975, Goenkaji (Ngài Goenka) đã hướng dẫn một khóa tu thiền trở thành lịch sử cho 120 tù nhân ở tại nhà tù trung tâm (Central Jail) thuộc Jaipur (thủ phủ của Tiểu bang Rajasthan), lần đầu tiên cuộc thử nghiệm như vầy trong lịch sử hình phạt Ấn Độ.
         Sau khóa này vào năm 1976 một khóa khác cho các nhân viên cảnh sát cao cấp ở Truờng Huấn luyện cảnh sát chính phủ (the goverment police Academy) thuộc Jaipur. Vào năm 1977, một khóa thứ hai được tổ chức tại Nhà tù trung tâm Jaipur. Những khóa này đã là những chủ đề của các cuộc nghiên cứu xã hội được điều khiển do trường đại học Rajasthan tổ chức. Vào năm 1990, một khóa nữa được tổ chức tại Nhà tù trung tâm Jaipur trong đó có 40 trường hợp là tù nhân chung thân và 10 nhân viên nhà tù tham gia với kết quả rất mỹ mãn. Vào năm 1991, một khóa cho các tù nhân chung thân được tổ chức tại Nhà tù trung tâm Sabaramati thuộc Ahmedabad và đã là chủ đề của chương trình nghiên cứu của Phân khoa Giáo dục của đại học Gujurat Viyapeeth.
          Những nghiên cứu của Rajasthan và Ahmedabad đã đề cập đến những thay đổi rất khả quan về thái độ và cách cư xử ở những người tham gia, và cho rằng thiền Vipassana là một sự cải cách chuẩn mực khả quan có thể làm cho những tội phạm trở thành những con người tốt trong xã hội. 
          Sự nghiệp phục vụ dân chúng của Thầy Sayagyi U Ba Khin , vị Thầy thiền của Ngài Goenkaji, là một tấm gương của kết quả biến đổi của Vipássana …..
          Sayagyi là Vị lãnh đạo của nhiều cơ quan nhà nước. Ngài đã thành công về sự thấm nhuần trách nhiệm, giới luật và đạo đức trong một ý nghĩa cao cả, và thành công trong việc dạy thiền Vipassana cho các nhân viên nhà nước làm việc chung với Thầy. Vì vậy, hiệu quả đã tăng vượt bậc và sự suy đồi được loại trừ. Tương tự, tại cơ quan nội vụ của chính quyền Rajasthan, sau khi một số viên chức nồng cốt tham gia các khóa Vipassana, các quyết định làm việc và các trường hợp bố trí được giải quyết nhanh chóng, và các mối quan hệ làm việc được phát triển. 
           Viện nghiên cứu thiền Vipassana đã chứng minh bằng tài liệu về những thí dụ khác về kết quả tích cực của ảnh hưởng thiền Vipassana như các lãnh vực sức khỏe, giáo dục, cai nghiện, và tổ chức kinh doanh.  Những kinh nghiệm này nhấn mạnh quan điểm rằng sự chuyển đổi xã hội phải bắt đầu bằng sự chuyển đổi cá nhân. Sự phát triển xã hội không thể được chứng minh chỉ bằng các bài giáo lý; giới luật và đạo đức của các sinh viên không thể được thấm nhuần chỉ một số bài giảng qua sách giáo khoa.
           Những tội phạm sẽ không trở thành công dân tốt vì sợ hãi hành phạt; sự bất hòa về giai cấp và đảng phái không thể được loại trừ bằng thước đo hình phạt. Lịch sử cho thấy nhiều sai lầm về cách làm như vầy. 
            Cá nhân là chìa khóa: anh ta hoặc cô ta phải đuợc cư xử với tình thương và lòng từ; anh ta phải được luyện tập để phát triển bản thân không phải bằng những sự khuyên bảo để làm theo các giới điều đạo đức, mà bằng được thấm nhuần với ước mong thành thật để chuyển đổi. Anh ta phải được dạy để khám phá chính mình, để tham gia một tiến trình có thể mang lại sự chuyển đổi, và dẫn đến sự thanh tịnh hóa về tâm. Đây là sự chuyển đổi duy nhất sẽ được duy trì.  Vipassana có khả năng chuyển đổi tâm tính con người.
            Cơ hội đang chờ đợi mọi người mong muốn nhiệt thành để nổ lực thực hành . 
Pune 30. 4. 2001.

Phương cách hành trì Thiền Vipassana

           Học thiền Vipassana, tốt nhất nên tham gia khóa mười ngày dưới sự hướng dẫn của một Vị thầy kinh nghiệm. Trong thời gian hành trì, thiền sinh chỉ lưu trú trong khu vực của trung tâm tu thiền,không tiếp xúc môi trường ngoài khu vực trung tâm. Các thiền sinh không được đọc, viết và duy trì phương pháp tu tập của bất kỳ tôn giáo nào khác hoặc các giáo điều khác. Phải tuân theo mệnh lệnh của bản nội qui sinh hoạt hằng ngày gồm có mười tiếng ngồi thiền định. Phải hành trì tịnh khẩu, không nói chuyện với bạn đồng tu, tuy nhiên, thiền sinh tự do trình bày vấn đề thiền định với vị Thầy hướng dẫn và những vấn đề khác với ban quản lý. 
          Có ba bước cho việc hành trì. 
          Bước một, thiền sinh từ bỏ các hành động có khả năng gây hại. Họ phải hành trì năm giới cấm: từ bỏ sát sanh, trộm cướp, nói láo, tà dâm và uống chất có hơi men. Sự hành trì năm giới cấm này là để cho tâm yên tĩnh thích hợp tiến hành công việc có lợi ích.
          Bước hai, trong 3 ngày rưởi đầu, thiền sinh hành trì thiền sổ tức (Anapana meditation), sự tập trung vào hơi thở. Sự hành trì này giúp cho việc phát triển khả năng kiềm chế tâm tán loạn. Hai bước đầu về cách sống thiện hành và phát triển sự kiềm chế tâm này rất cần thiết và có lợi nhưng chưa hoàn hảo trừ phi bước thứ ba được hành trì:thanh lọc tâm qua sự giảm thiểu hành vi bất thiện. 
          Bước thứ ba được tiến hành trong 6 ngày rưởi còn lại, là sự hành trì Vipassana: chúng ta quán sát toàn bộ cơ cấu thân và tâm với trí tuệ sáng suốt. 
          Thiền sinh được hướng dẫn phương pháp thiền vài lần trong ngày, và tiến trình mỗi ngày được giảng qua băng video từ Goenkaji vào mỗi buổi tối. Sự im lặng tuyệt đối dành cho 9 ngày đầu.
          Vào ngày thứ 10, thiền sinh bắt đầu được phép nói chuyện , làm những việc trao đổi trong đời sống bình thường trở lại. Khóa thiền kết thúc vào buổi sáng ngày thứ 11. Khóa tu chấm dứt với sự thực hành từ tâm (metta-bhavana) hướng đến tất cả chúng sanh với ý nghiã sự thanh tịnh trong suốt khóa tu được chia xẻ với mọi chúng sanh.

          CÁC KHÓA TU TẬP
          Những khóa Vipassana được tổ chức định kỳ ở các trung tâm cố định và đã thuê những khu vực ở các nước khác.Thông thường các khóa mười ngày, khóa đặc biệt và các khóa dài hạn 20 ngày, 30 ngày, và 45 ngày được tổ chức theo giai đoạn cho những thiền sinh đã có kinh nghiệm. Các khóa Anapana (tập sổ tức quán) ngắn dành cho trẻ em, phần giới thiệu của phương pháp Vipassana, được tổ chức định kỳ ở Ấn Độ.
           Các khóa kéo dài từ một đến ba ngày và phục vụ cho trẻ em trong hai nhóm tuổi; 8 đến 11 tuổi và 12 đến15 tuổi. 
          Tất cả các khóa khắp nơi trên thế giới được tổ chức căn bản dựa vào sự cúng dường tùy hỷ. Không có tiền phí: các khóa tất cả được xoay sở nhờ sự cúng dường của những thiền sinh đã tham gia các khóa trước và mong muốn chia xẻ sự ích lợi mà chính họ đã gặt hái bằng cách cúng dường cho các thiền sinh từ các khóa sau. Vị Thầy và Chư Vị Thầy phụ tá không nhận tiền thù lao; Họ và những người tình nguyện phục vụ cho khóa thiền. Sự tu tập này thích hợp với truyền thống thuần tịnh, trong đó giáo lý được ban tặng tự phát vượt ra ngòai cấu uế của buôn bán, và ủng hộ bằng sự cúng dường phát xuất từ thiện chí của sự mang ơn và rộng lượng. 

          MỘT PHƯƠNG PHÁP TU TẬP THUẦN TÚY
          Mặc dù thiền Vipassana được bảo tồn trong truyền thống Phật giáo, nó không chứa đựng tính chất tôn phái, và nó có thể được chấp nhận và áp dụng cho mọi người ở bất cứ nguồn gốc nào.Đức Phật, chính ngài đã dạy giáo pháp (phương pháp, chân lý, con đường). Ngài không gọi chư vị Đệ tử của ngài là "Phật tử", Ngài xem họ như là "Pháp hữu" (những người hành theo chân lý). Phương pháp tu tập căn cứ vào nền tảng rằng tất cả chúng sanh có những vấn đề giống nhau, và một phương pháp thiết thực có thể xóa tan những vấn đề này có thể hành trì một cách phổ quát. 
          Những khóa thiền Vipassana được mở cho mọi người thành tâm muốn học phương pháp thiền, không phân biệt chủng tộc, giai cấp, tín đồ, quốc gia.; Ấn Độ giáo, Kỳ na giáo, Hồi giáo, Sít giáo, Phật giáo, Thiên chúa giáo, Do thái giáo cũng như các Tu sĩ của các Tôn giáo khác tất cả đều tu tập thành công Vipassana.
          Bệnh tật thì phổ quát vì vậy, phương thuốc phải là phương thuốc phổ quát. Ví dụ, khi chúng ta sân giận, sân giận này không phải là sân giận Ấn Độ, sân giận Thiên chúa giáo, sân giận Trung hoa, hoặc sân giận Mỹ. Tương tự, tình thương, lòng từ bi không phải lãnh vực giới hạn của bất cứ cộng đồng nào hoặc niềm tin: chúng là đặc tính phổ quát con người kết qủa từ tâm thanh tịnh.
          Con người từ mọi nguồn gốc khi tu tậpVipassana mang lại kết quả rằng họ trở thành những con người tốt hơn. (Còn tiếp).

(GIỚI THIỆU VỀ THIỀN VIPASSANA
Vipassana International Academy
HT. Thích Minh Diệu dịch )

Nguồn gốc lịch sử Thiền Vipassana

         Thiền Vipassana (thiền minh sát tuệ) là một phương pháp tu đơn giản, thực tế mang lại kết quả là tâm an lạc hướng đến một đời sống lợi lạc và hạnh phúc. Vipassana có nghĩa là "thấy mọi sự vật như thật bản chất của chúng ngay trong lúc quan sát"; nó là một tiến trình logic của việc thanh lọc tâm qua phương cách tự quán chiếu (self- observation).
        Trải qua tiến trình thời gian, chúng ta sẽ kinh nghiệm tất cả sự lo âu, sự trạo hối và sự bất hòa. Khi chúng ta khổ, chúng ta không giữ nỗi khổ trong tâm chúng ta; thay vì, chúng ta làm phiền đến người khác. Rõ ràng, đây không phải là phương cách thích hợp để sống. Tất cả chúng ta mong muốn sống trong an bình giữa chúng ta và mọi người xung quanh. Sau hết, con người là những người sống trong xã hội; chúng ta phải sống và ban giao với họ. Làm thế nào chúng ta có thể sống một đời sống an bình? Làm thế nào chúng ta có thể duy trì an hòa trong chúng ta, và duy trì hòa bình và hài hòa xung quanh chúng ta? 
          Vipassana có thể giúp chúng ta sống an lạc và hài hòa; nó làm thanh tịnh tâm, giải thoát tâm ra khỏi khổ đau và những nguyên nhân cội rễ của khổ đau.
          Hành trì, tuần tự dẫn đến mục đích thiêng liêng cao nhất của sự giải thoát hoàn toàn tất cả mọi ô nhiểm thuộc về tâm lý. 

         NGUỒN GỐC LỊCH SỬ 

          Vipassana là một trong những phương pháp thiền định xưa nhất của Ấn Độ. Nó được Đức Phật Thích ca khám phá lại cách đây trên 2.500 năm, và nó là phương pháp cốt lõi mà Đức Phật đã tu tập và giảng dạy trong suốt 45 năm hoằng hóa của ngài.
           Vào thời Đức phật, nhiều người sống vùng Bắc Ấn Độ (ngày nay thuộc tiểu bang Biha và Uta Pradesh) dựa vào phương pháp tu tập Vipassana, đã thoát khỏi mọi trói buộc khổ đau trong đời và họ đã thành tựu ở những thứ bậc cao về sự chứng đạt trong mọi lãnh vực của cuộc sống. Trải qua thời gian, phương pháp Thiền Vipassana đã lan truyền sang các nước láng giềng như Burma (Miến điện), Srilanka (Tích lan), Thailand (Thái lan) và những nước khác, ở những nước này nguồn thiền cũng đã mang lại kết quả lợi ích lớn lao như ở Ấn độ.
         Trải qua năm thế kỷ sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, giáo lý cao quí của nguồn thiền Vipassana đã biến mất khỏi Ấn Độ, giáo lý nguyên thủy cũng không còn. Tuy nhiên, ở Burma (Miến điện), nó được bảo tồn từ nhiều thế hệ của Các vị Thầy tận tâm bảo trì, từ thế hệ này sang thế hệ khác, trải qua hơn 2.000 năm, dòng truyền trao tận tụy này (bởi các vị Thầy) đã chuyển trao phương pháp thiền định trong hình thức thuần túy nguyên thủy của nó. 
           Ở thời đại chúng ta, thiền Vipassana được giới thiệu trở lại Ấn Độ, cũng như những người dân từ hơn tám mươi quốc gia khác nhau, bởi Thiền sư S. N. Goenka (Thầy SNG).
          Thầy SNG được Vị thầy nổi tiếng thiền Vipassana Miến điện (Sayagyi U BaKhin) giao trọng trách dạy thiền Vipassana. Trước khi Ngài thị tịch vào năm 1971, Thầy Sayagyi đã chứng kiến một trong những mơ ước nhất của Ngài đã thành sự thật. Ngài đã mong ước sẽ đưa nguồn thiền Vipassana trở lại Ấn Độ, quê hương của nó, để giúp mọi người giải trừ những khổ đau. Từ Ấn Độ, Thầy đã cảm nhận chắc chắn rằng rồi đây nó sẽ truyền bá rộng ra khắp thế giới vì lợi ích an lạc cho nhân loại. 
          Thầy SNG đã bắt đầu hướng dẫn những khóa Vipassana ở Ấn Độ vào năm 1969; mười năm sau, Ngài cũng bắt đầu dạy thiền ở các quốc gia khác.Vào năm thứ 23 từ khi Ngài bắt đầu dạy, Thầy SNG đã hướng dẫn trên 350 khóa 10 ngày về thiền Vipassana, vã đã đào tạo trên 120 Vị Thầy phụ tá, những vị Thầy này đã hướng dẫn trên 1200 khóa khắp mọi nơi trên thế giới.  Hơn nữa, có tất cả 19 Trung tâm dành cho tu tập Vipassana được thành lập; bảy Trung tâm ở Ấn Độ, những Trung tâm còn lại ở tám quốc gia khác.
           Pháp bảo vô giá của Vipassana, được duy trì trong một thời gian lâu dài ở tiểu quốc Burma, bây giờ nó đã được hành trì ở nhiều nơi trên khắp thế giới. Ngày nay, con số người tham gia ngày một tăng có cơ hội để học nghệ thuật sống này để mang lại an lạc và hạnh phúc lâu dài cho họ. 
          Trong quá khứ, ở Ấn Độ đặc biệt được xem như là một vị Thầy thế giới. Vào thời chúng ta, Chân lý phát nguồn từ lưu vực sông Hằng (Giáo pháp Đức Phật) một lần nữa đang tuôn trào ra từ Ấn Độ đến những thế giới khát khao về nó.   (Còn tiếp).

(GIỚI THIỆU VỀ THIỀN VIPASSANA
Vipassana International Academy - HT. Thích Minh Diệu Dịch )

Giới thiệu về Thiền Vipassana

          Hiện nay nguồn kiến thức về mọi vấn đề đã được đa dạng hóa và phổ cập đến nhiều người trong cộng đồng từ nhiều nguồn khác nhau, từ đó làm phát triển nguồn tư duy, sự khát khao được khám phá cũng như tăng trưởng đáng kể tri thức và nhận thức của chúng ta trong thời đại xã hội phát triển không ngừng.
           Tuy nhiên, cũng vì phát triển theo nhiều hướng và đa dạng từ nhiều nguồn khác nhau nên chúng ta cần phải chắt lọc, so sánh, đối chiếu từ các nguồn gốc của nó để thấy rằng đó là kiến thức chân thực, xác đáng, đúng đắn, để có thể tiếp nhận, học hỏi và ghi nhận nó như là một nguồn kiến thức của chính chúng ta.
          Một khi không còn được ngồi trên ghế giảng đường để có điều kiện học hỏi trực tiếp từ các vi thầy tại các trường, các trung tâm, các học viện, chúng ta chỉ còn cách tự đốt đuốc mà đi, tự tìm tòi học hỏi để làm sáng tỏ nhiều vấn đề mà chúng ta từ lâu vẫn còn đặt vào đó những dấu hỏi.
         Một trong những cách thức tìm tòi học hỏi các nguồn tri thức đáng tin cậy là tìm đến các vị thầy, các vị tổ sư, các vị thượng đẳng được minh chứng trong hiện tại hoặc tại các sách của họ đã xuất bản, các bài thuyết trình, các công trình nghiên cứu của họ. Đây quả là một kho tàng kiến thức vô tận mà có lẽ học hỏi cho đến cuối đời cũng chưa thể lý ngộ hết cái diệu huyền trong đó.
          Thiền được coi là một tông phái của Phật giáo, có lịch sử hình thành và phát triển cùng với sự lớn mạnh của Phật giáo, trong đó Thiền Vipassana, theo ngôn ngữ Ấn Độ 'passana' có nghĩa là nhìn thấy bằng nhãn quan thông thường, 'vipassana' là phương pháp quan sát vạn vật 'duyên khởi' như bản chất thật của chính nó (tự tánh như thị), chứ không phải 'được cho là' (kiến tánh phân biệt).
          Vipassana còn được gọi là "Thiền tuệ quán", một phương pháp thực nghiệm tự tánh, quán chiếu chính mình. Một khi chúng ta chứng đạt sự thật tối thượng trên toàn bộ cơ cấu thân tâm, thì chân lý hiển nhiên sẽ được liễu ngộ.
          Hiện nay Thiền Vipassana đã thoát ra khỏi vị trí là một môn thực hành của Phật giáo để thâm nhập vào đời sống của nhiều người, nhiều tầng lớp xã hội trên bình diện rộng hơn của thế giới, với những lợi ích mà nó mang lại cho mỗi người hiểu và thực hành nó trong cuộc sống hàng ngày.
          Vì những lý do trên, để tìm hiểu thêm về Thiền Vipassana, xin giới thiệu đến các bạn hữu bài viết : "Giới thiệu về Thiền Vipassana" của Vipassana International Academy (Học viện Thiền Vipassana quốc tế) do Hòa thượng Thích Minh Diệu dịch thuật.

          GIỚI THIỆU VỀ THIỀN VIPASSANA
             "Vipassana International Academy"
                    HT.Thích Minh Diệu Dịch 
           Nguồn: http://thuvienhoasen.org

          Mục Lục 

          NGUỒN GỐC LỊCH SỬ
          PHƯƠNG CÁCH HÀNH TRÌ
          CÁC KHÓA TU TẬP
          MỘT PHƯƠNG PHÁP TU TẬP THUẦN TÚY
          MÔI TRƯỜNG THẾ GIỚI NGÀY NAY
          VIPASSANA VÀ SỰ CHUYỂN ĐỔI XÃ HỘI
     
         Vì bài viết dài nên xin được đăng từng phần theo mục lục để các bạn hữu tiện theo dõi.
         Chân thành cám ơn.

Thứ Tư, 27 tháng 7, 2016

Thể tính và huệ nhãn

Một hôm, ngài Quế Sâm, ngài Trường Khánh, ngài Bảo Phước là ba vị Thiền sư đạt đạo cùng đi vào Châu Thành, chợt thấy một đóa mẫu đơn bên đường. Ngài Bảo Phước nói: - Một đóa hoa mẫu đơn đẹp. Ngài Trường Khánh bảo: - Chớ để con mắt sanh hoa. Ngài Quế Sâm liền bảo: - Đáng tiếc một đóa hoa. Như vậy, chỉ là một đóa hoa, nhưng đã đi từ mắt vào đến sự suy nghĩ phán xét của 3 vị thiền sư, đi từ thể tính đến tự tính, từ sắc đến tưởng. Đó là do cái kiến chấp thể tướng từ 3 vị về một đóa hoa mà sinh ra. Con mắt sinh hoa là con mắt thể tướng nhìn hoa để biết rằng có hoa, nhận thức rằng có một đóa hoa hiện hữu trước mắt mình, cũng đáng tiếc cho đóa hoa là hoa không có thực tính để nhìn nhận đó là hoa. Thiền sư Duy Tín có nói: “Trước ba mươi năm khi chưa học đạo thì thấy núi sông là núi sông. Sau khi học đạo, hiểu đạo lý thì thấy núi sông chẳng phải là núi sông. Sau ba mươi năm thấy núi sông trở lại là núi sông”. Chưa hiểu đạo, thấy cái trước mắt mình thì biết cái đó đang ở trước mặt mình với hình trạng như thật. Núi là núi, sông là sông. Thật vậy. Khi hiểu đạo rồi, nhìn thấy mọi thể tính của sự vật đều là không, toàn là giả hợp, nên dù cho thấy nó trước mặt nhưng tướng tính của nó vốn là không. Sự vật không còn là sự vật nữa, núi không là núi, sông không là sông, chỉ là những ngộ nhận mê lầm của mắt và tâm chấp. Khi hiểu rốt ráo con đường đạo trong chính mình mới thấy núi cũng là núi, sông cũng là sông, lúc còn lúc mất, tồn tại hay mất đi chỉ là vọng tưởng của tâm. Mang nhiều, gánh nặng từ ngũ uẩn, mê chấp, biết lúc nào mới thấy núi chính là núi, sông chính là sông. Hãy bước đi trên con đường đạo mà Đức Phật đã chỉ cho ta, hầu mong khai thị huệ nhãn trong mỗi người của chúng ta. Để có ngày nào đó sẽ thấy được núi sông như thế nào.